Giặt khô có từ thời cổ đại. Các ghi chép về phương pháp làm sạch những món đồ tinh xảo đã được tìm thấy trong tàn tích của Pompeii, bị tàn phá bởi núi lửa Vesuvius vào năm 79.

Lịch sử về giặt khô
Lịch sử về giặt khô.

Vào thời đó, nhiều quần áo được làm từ len, được biết là có thể co lại trong nước. Các chất tẩy rửa quần áo chuyên nghiệp, được gọi là fullers, đã sử dụng các dung môi như amoniac (được tạo ra từ nước tiểu) và dung dịch kiềm, cũng như một loại đất sét được gọi là đất đầy đủ, có khả năng hấp thụ tốt các vết bẩn, mồ hôi và vết dầu mỡ.

Tài liệu tham khảo sớm nhất về bất cứ thứ gì tương tự như giặt khô hiện đại là câu chuyện về một người giúp việc vụng về làm đổ dầu hỏa lên một chiếc khăn trải bàn dính dầu mỡ. Dầu hỏa nhanh chóng bốc hơi, và cô nhận thấy chỗ hóa chất rơi xuống sạch hơn bao nhiêu. Người ta đã thực hiện nhiều thí nghiệm sau sự cố đó để xác định xem loại dung môi nào có khả năng làm sạch vết dầu mỡ tốt nhất. Những chất này bao gồm rượu nhựa thông, dầu hỏa, chất lỏng từ dầu mỏ, xăng và dầu long não.

Công ty được công nhận là máy giặt khô thương mại đầu tiên thuộc về công ty Jolly-Belin, mở cửa vào năm 1825 tại Paris, theo Handbook of Solvents. Tất nhiên, ở Paris, thời trang là một phần quan trọng của xã hội. Quần áo được ngâm trong những chiếc thùng chứa đầy nhựa thông, sau đó cho vào máy giặt và sấy khô trong không khí để nhựa thông bay hơi.

Máy giặt khô đầu tiên ở Hoa Kỳ đã xuất hiện vào khoảng thời gian đó. Thomas Jennings , một thợ may và nhà sáng chế Hoa Kỳ, đồng thời là người Mỹ gốc Phi đầu tiên được cấp bằng sáng chế tại Hoa Kỳ, đã sử dụng một phương pháp gọi là "cọ rửa khô" để làm sạch quần áo mà các phương pháp làm sạch truyền thống sẽ làm hỏng. Quy trình của ông đã được cấp bằng sáng chế vào năm 1821, và Jennings điều hành một công ty may đo và giặt hấp rất thành công ở Thành phố New York.

Vấn đề cơ bản với các dung môi gốc dầu mỏ là tính dễ bắt lửa của chúng, vì vậy các giải pháp thay thế đã được tìm kiếm. Michael Faraday, nhà vật lý và hóa học người Anh, lần đầu tiên tổng hợp PCE vào năm 1821. Tuy nhiên, nó không dễ dàng được sử dụng trong giặt khô cho đến đầu những năm 1930, sau khi William Joseph Stoddard, một thợ giặt khô của Mỹ, phát triển thêm PCE như một dung môi giặt khô. Việc sử dụng nó đã tăng lên vào cuối những năm 1930 và đầu những năm 1940 do sự thiếu hụt xăng dầu trong Thế chiến thứ hai.

Nhận chào giá theo container các mặt hàng hóa chất công nghiệp. Giá công luôn luôn tốt hơn rất nhiều so với giá bán lẻ tại kho. Đặc biệt, đặt nhập từ nước người kéo thẳng về kho khách hàng thì sẽ càng tốt hơn nữa vì đỡ chi phí vận chuyển và bốc xếp. Chi tiết liên hệ Niệm 0984.541.045 (Zalo/Call) để trao đổi và thương lượng ạ!

Bài liên quan

Xem nhiều trong tuần

Dung môi phân cực và không phân cực là gì?

Dung môi phân cực hòa tan chất tan phân cực và dung môi không phân cực hòa tan chất tan không phân cực. Ví dụ, nước là một dung môi phân cực và nó sẽ hòa tan muối và các phân tử phân cực khác, nhưng không phải là các phân tử không phân cực như dầu. Xăng là một dung môi không phân cực và sẽ hòa tan dầu, nhưng sẽ không trộn lẫn với nước.

Amide là gì? Khái quát về nhóm amide trong hóa chất công nghiệp

Amide là một nhóm chức nằm trong phân nhóm hữu cơ, với cấu trúc chung là một nhóm cacbonil (-C=O) liên kết với một nhóm amino (-NH2 hoặc -NR2) thông qua một liên kết peptit (-C-N-). Nhóm amide là một phần quan trọng của hóa chất công nghiệp , được sử dụng trong nhiều ứng dụng khác nhau, bao gồm dược phẩm, chất tẩy rửa, thuốc nhuộm, nhựa, sợi tổng hợp và thuốc diệt cỏ.

Toluene (C6H5CH3) - Methylbenzene

Toluene là một hợp chất tự nhiên có nguồn gốc chủ yếu từ dầu mỏ hoặc quá trình hóa dầu. Toluene là một thành phần phổ biến trong xăng, keo và các sản phẩm sơn. Toluene là một chất lỏng, không màu, không tan trong nước và có mùi giống như chất pha loãng sơn. Nó là một chất lỏng không màu được thay thế đơn chức, bao gồm một nhóm CH 3 được gắn với một nhóm phenyl.

Ethoxylates là gì, đặc điểm và ứng dụng của nó?

Ethoxylates là một nhóm hóa chất có cấu trúc phân tử dựa trên quá trình ethoxyl hóa, trong đó nhóm ethylene oxide (EO) được thêm vào một phân tử hoá học khác. Điều này được thực hiện bằng cách thực hiện phản ứng giữa ethylene oxide và một chất mẹ (chất khởi đầu) có thể là rượu, phenol, amin, axit béo, hoặc các chất hữu cơ khác.

Cồn Isobutanol (Isobutyl Alcohol)

Isobutanol còn được gọi Isobutyl Alcohol được sử dụng phổ biến trong sản xuất sơn và nhựa resin, trong mực in, keo dán, sản xuất vecni đánh bóng...